Sản phẩm theo nghành
Thống kê truy cập
Số người online: 1
Tổng lượt truy cập: 10558
Hỗ trợ bán buôn - 091.3087288
Hỗ trợ kinh doanh - 024.3557.4374 096.4.047 288
NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ Ban hành Quy chế về cơ sở giáo dục
CHÍNH PHỦ
Số: 32/CP
 
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 14 tháng 04 năm 1997                          
 

NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ

Ban hành Quy chế về cơ sở giáo dục

 

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Căn cứ Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 06 tháng 7 năm 1995;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ,

 

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Nay ban hành kèm theo Nghị định này "Quy chế về cơ sở giáo dục".

Điều 2. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký, những quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Bộ trưởng các Bộ: Nội vụ, Tư pháp, Tài chính, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có nhiệm vụ hướng dẫn và tổ chức thi hành Nghị định này.

Điều 3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.

 

QUY CHẾ VỀ CƠ SỞ GIÁO DỤC

(Ban hành kèm theo Nghị định số 32/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ)

CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Đưa vào cơ sở giáo dục là biện pháp xử lý hành chính buộc những người thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều 2 của Quy chế này phải học tập, lao động và chịu sự quản lý của cơ sở giáo dục từ 6 tháng đến 2 năm nhằm giáo dục họ trở thành công dân lương thiện.

Người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục gọi tắt là "trại viên".

Điều 2. Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bao gồm những người có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm tài sản của Nhà nước, tài sản của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tài sản của các tổ chức nước ngoài, tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài và vi phạm trật tự, an toàn xã hội có tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã được chính quyền và nhân dân địa phương giáo dục nhiều lần mà vẫn không chịu sửa chữa.

Không đưa vào cơ sở giáo dục người chưa đủ 18 tuổi, nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi.

Điều 3. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải bảo đảm đúng người, đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và Quy chế này.

Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của người phải chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 4. Cơ sở giáo dục là nơi học tập, lao động và sinh hoạt tập trung của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết định việc thành lập, giải thể và thống nhất quản lý các cơ sở giáo dục.

Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Nội vụ trong việc tổ chức quản lý các cơ sở giáo dục.

Điều 5. Kinh phí cho việc xây dựng cơ bản, tổ chức hoạt động và mua sắm trang thiết bị của cơ sở giáo dục do Bộ Nội vụ cấp trên cơ sở kế hoạch ngân sách nhà nước phân bổ hàng năm.

 

CHƯƠNG II
THỦ TỤC ĐƯA NGƯỜI VÀO CƠ SỞ GIÁO DỤC

Điều 6.

1. Đối với người thuộc đối tượng cần đưa vào cơ sở giáo dục thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi người đó cư trú, xem xét, lập hồ sơ, gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thẩm tra, làm văn bản đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục và gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

2. Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại Điều 2 Quy chế này, lập biên bản báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, lập hồ sơ. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được biên bản, báo cáo, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

Trường hợp người không có nơi cư trú nhất định do cơ quan công an cấp huyện hoặc cấp tỉnh phát hiện, lập biên bản vi phạm thì cơ quan công an phải tiến hành xác minh, làm báo cáo gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp để xem xét, lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục.

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cấp kinh phí, xây dựng nơi tạm giữ hành chính, tiền ăn cho các đối tượng trên và chỉ đạo các ngành hữu quan tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng không có nơi cư trú nhất định hoặc những đối tượng có khả năng bỏ trốn trong thời gian lập hồ sơ chờ quyết định, hoặc chờ đưa vào cơ sở giáo dục.

Đối với người đang bị tạm giữ hoặc tạm giam trong các vụ án hình sự mà qua điều tra thấy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thì Thủ trưởng cơ quan điều tra báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

3. Hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó, các biện pháp giáo dục đã được áp dụng, nhận xét của cơ quan công an, ý kiến của tổ chức xã hội hữu quan ở cơ sở.

4. Cơ quan công an có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu để lập hồ sơ.

Điều 7. Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh gửi ngay hồ sơ đó cho Hội đồng tư vấn.

Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn phải họp để xét duyệt hồ sơ, làm văn bản trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.

Hội đồng tư vấn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập gồm đại diện lãnh đạo cơ quan Công an, cơ quan Tư pháp, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh. Đại diện cơ quan công an là Thường trực Hội đồng tư vấn, có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu cần thiết, tổ chức, chủ trì phiên họp và làm báo cáo trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể để xem xét biểu quyết từng trường hợp cụ thể và quyết định theo đa số. Trường hợp biểu quyết ngang nhau thì quyết định theo ý kiến của biểu quyết của Thường trực Hội đồng tư vấn. Trường hợp ý kiến của Thường trực Hội đồng trái với đa số thành viên thì quyết định theo ý kiến của đa số, đồng thời Thường trực Hội đồng có quyền báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ý kiến của mình.

Phiên họp của Hội đồng tư vấn có đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp tham dự.

Điều 8.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc đưa người vào cơ sở giáo dục trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của Hội đồng tư vấn.

2. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ tên, chức vụ của người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người được đưa vào cơ sở giáo dục; lý do, điều khoản, tên văn bản pháp luật được áp dụng, thời hạn và nơi thi hành, trách nhiệm phải chấp hành quyết định của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; quyền khiếu nại của họ, nơi và thời hạn khiếu nại.

3. Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được gửi cho người phải chấp hành quyết định đó, đồng thời gửi cho Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cơ quan Công an cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 9.

1. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được quyết định đưa người vào cơ sở giáo dục, cơ quan Công an cấp tỉnh phải tổ chức đưa người đó vào cơ sở giáo dục.

2. Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục được tính từ ngày người bị áp dụng biện pháp đó bắt đầu chấp hành tại cơ sở.

3. Khi nhận được quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp xã có kế hoạch, biện pháp cụ thể để phối hợp với Cơ quan Công an cấp tỉnh trong việc đảm bảo thi hành quyết định đó.

4. Trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thuộc diện được xét hoãn, miễn chấp hành theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 71 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan đã lập hồ sơ theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Quy chế này phải làm ngay văn bản báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được báo cáo, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc hoãn, miễn chấp hành. Cơ quan Công an có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc xem xét hồ sơ đề nghị việc hoãn, miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.

Điều 10.

1. Khi đưa người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải có hồ sơ kèm theo bao gồm:

Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục;

Bản tóm tắt lý lịch của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

Bản tóm tắt hành vi vi phạm pháp luật đề nghị đưa người vào cơ sở giáo dục;

Danh chỉ bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

Những tài liệu khác liên quan đến nhân thân của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục cần thiết cho việc giáo dục người đó (nếu có).

2. Khi tiếp nhận người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục phải lập biên bản giao nhận. Cơ sở giáo dục phải kiểm tra hồ sơ, căn cước, sức khoẻ của người đó trước khi tiếp nhận. Nếu sức khoẻ của người đó không bình thường thì phải lập biên bản xác nhận tình trạng sức khoẻ của họ khi đến cơ sở giáo dục với sự chứng kiến của bên giao và bên nhận.

Điều 11. Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, nếu không tự giác chấp hành hoặc trốn tránh, chống đối thì cơ quan Công an áp dụng những biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật để buộc người đó phải thi hành.

Điều 12. Người đã có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục đang ở ngoài xã hội mà bỏ trốn thì Giám đốc Công an cấp tỉnh ra lệnh truy bắt, tạm giữ người theo thủ tục hành chính. Người đang chấp hành tại cơ sở giáo dục mà bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở giáo dục ra lệnh truy bắt đưa về cơ sở giáo dục. Thời gian trốn khỏi cơ sở giáo dục không được tính vào thời gian chấp hành quyết định.

Khi phát hiện người trốn khỏi cơ sở giáo dục, mọi người phải có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất.

Trong mọi trường hợp, việc bắt, tạm giữ người nói trên đều phải lập biên bản và lấy lời khai của người đó. Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan Công an phải ra lệnh tạm giữ hành chính và đưa ngày người đó đến nhà tạm giữ hành chính gần nhất, đồng thời thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy bắt biết.

Khi nhận được thông báo Giám đốc Công an cấp tỉnh hoặc Giám đốc cơ sở giáo dục phải cử người đến ngay để nhận người tạm giữ và tiến hành lập biên bản giao nhận.

 

CHƯƠNG III
TỔ CHỨC CƠ SỞ GIÁO DỤC VÀ QUẢN LÝ TRẠI VIÊN

Điều 13.

1. Bộ trưởng Bộ Nội vụ quyết định việc thành lập cơ sở giáo dục; bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, Phó giám đốc; quyết định biên chế và tổ chức bộ máy của cơ sở giáo dục.

2. Tổ chức, bộ máy của cơ sở giáo dục gồm có Giám đốc, các Phó giám đốc, cán bộ quản lý, cán bộ giáo dục, hướng nghiệp dạy nghề, cán bộ hậu cần, y tế và lực lượng cảnh sát bảo vệ.

Quy mô mỗi cơ sở giáo dục quản lý từ ba trăm đến một nghìn trại viên.

Điều 14. Giám đốc cơ sở giáo dục có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

Điều hành và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ sở giáo dục.

Phó giám đốc giúp Giám đốc thực hiện những nhiệm vụ theo sự phân công của Giám đốc.

Điều 15. Tiêu chuẩn của Giám đốc, Phó giám đốc và cán bộ, nhân viên của cơ sở giáo dục:

Giám đốc, Phó giám đốc, cán bộ quản lý, cán bộ giáo dục, cán bộ hậu cần, y tế và cảnh sát bảo vệ phải có phẩm chất chính trị tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, hiểu biết chuyên môn và pháp luật.

Giám đốc, Phó giám đốc phải là người tốt nghiệp một trong các trường Đại học Cảnh sát, Đại học An ninh, Đại học Luật, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn; Đại học Sư phạm hoặc tương đương trở lên và có kinh nghiệm về quản lý, giáo dục, những người vi phạm pháp luật.

Cán bộ quản lý, cán bộ giáo dục và chỉ huy lực lượng cảnh sát bảo vệ phải là người đã tốt nghiệp Trung học Cảnh sát, Trung học An ninh hoặc tương đương trở lên.

Sĩ quan, chiến sĩ cảnh sát làm nhiệm vụ dẫn giải, bảo vệ phải là những người được đào tạo về nghiệp vụ bảo vệ chuyên ngành theo quy định của Bộ Nội vụ.

Điều 16. Cơ sở giáo dục được tiếp nhận sự tài trợ, giúp đỡ về vật chất của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; được tham gia hợp đồng liên doanh liên kết với các tổ chức, cá nhân, cơ sở kinh tế quy định của pháp luật.

Điều 17. Cơ sở giáo dục được quy hoạch, thiết kế xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Nội vụ, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của công tác quản lý giáo dục và đảm bảo tiêu chuẩn về phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường.

Điều 18. Giám đốc cơ sở giáo dục căn cứ vào số lượng trại viên, thời hạn giáo dục, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức độ vi phạm, tình trạng sức khoẻ, giới tính và lứa tuổi của họ để tổ chức quản lý cho phù hợp.

Điều 19. Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định chế độ, cách thức sử dụng tiền mặt và danh mục đồ vật cho phép hoặc cấm trại viên đem vào cơ sở giáo dục.

Điều 20. Việc trích xuất trại viên ra khỏi cơ sở giáo dục để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong những trường hợp đặc biệt khác chỉ được thực hiện theo lệnh trích xuất của cơ quan có thẩm quyền.

Lệnh trích xuất trại viên phải ghi rõ mục đích và thời hạn trích xuất, cấp bậc, chức vụ của người ký lệnh trích xuất.

Thủ tục trích xuất do Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định.

Cơ quan có yêu cầu trích xuất chịu trách nhiệm đưa người có lệnh trích xuất đi và trả lại cho cơ sở giáo dục theo đúng thời hạn đã ghi trong lệnh, khi giao nhận người theo lệnh trích xuất phải lập biên bản; thời hạn trích xuất trại viên được tính vào thời hạn chấp hành tại cơ sở giáo dục.

Điều 21. Giám đốc cơ sở giáo dục định kỳ đánh giá kết quả giáo dục, sự tiến bộ của trại viên. Đối với những người đã chấp hành được một nửa thời hạn, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì lập hồ sơ đề nghị Bộ trưởng Bộ Nội vụ xem xét quyết định giảm thời hạn chấp hành.

Điều 22.

1. Trại viên đã chấp hành xong thời hạn giáo dục, thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn giáo dục cho họ.

Người đã chấp hành xong thời hạn giáo dục được nhận lại tiền, vật gửi lưu ký tại cơ sở (nếu có), được cơ sở giáo dục cấp tiền tàu xe, tiền ăn đường và một bộ quần áo thường (nếu họ không có) để trở về nơi cư trú và phải trả lại những vật dụng, trang thiết bị dùng cho lao động, sinh hoạt đã được cơ sở giáo dục cho mượn, nếu làm mất hoặc hư hỏng phải bồi thường.

2. Giám đốc cơ sở giáo dục gửi bản sao giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn giáo dục cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục, Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đề nghị và Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú, đồng thời thông báo cho gia đình họ biết. Trường hợp những người đã hết thời hạn giáo dục tại cơ sở mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi Uỷ ban nhân dân các cấp. Khi về địa phương nếu người đó vẫn không thực sự tiến bộ, tiếp tục có các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Quy chế này thì Uỷ ban nhân dân phải lập ngay hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

 

CHƯƠNG IV
CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI TRẠI VIÊN

Điều 23.

1. Trại viên phải lao động, học tập và sinh hoạt dưới sự quản lý, giám sát của cơ sở giáo dục. Trại viên được bố trí ở theo buồng tập thể, có giường (hoặc sàn nằm), có chiếu, màn. Chỗ nằm tối thiểu của mỗi người không dưới 2,5 m2. Khu vực ở của nam, nữ tách riêng.

2. Trại viên được mang vào cơ sở giáo dục những đồ dùng cá nhân thiết yếu để sử dụng theo quy định của Bộ Nội vụ.

3. Trại viên phải học nội quy, quy chế về cơ sở giáo dục và nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế đó.

Điều 24.

1. Mỗi năm, mỗi trại viên được cấp 2 bộ quần áo dài, 2 bộ quần áo lót, 2 khăn mặt, 1 đôi dép, 1 bàn chải đánh răng, 1 áo mưa, 1 chiếc mũ. Mỗi quý được cấp 1 hộp kem đánh răng, 0,6 kg xà phòng. Ba năm được cấp 1 chăn, 1 màn. Đối với những vùng rét phía Bắc được cấp thêm 1 áo ấm và 1 chăn bông dùng trong 3 năm.

2. Trại viên là phụ nữ được cấp thêm mỗi tháng số tiền tương đương với 1,5 kg gạo.

Điều 25.

1. Định mức ăn hàng tháng của trại viên được quy định như sau: gạo 15kg; thịt hoặc cá 0,8kg; đường 0,3kg; muối 0,5kg; nước mắm 1 lít; rau xanh 15kg; chất đốt 15kg củi hoặc tương đương; tiền thuốc hàng tháng tương đương với 1kg gạo. Ngày lễ, ngày Tết định mức ăn có thể cao hơn nhưng không quá 5 lần ngày thường.

Đối với những người lao động nặng hoặc trong môi trường độc hại định lượng ăn trong tháng có thể tăng thêm, theo quy định của pháp luật.

Chế độ ăn, nghỉ đối với trại viên bị bệnh do Giám đốc cơ sở giáo dục quyết định theo chỉ định của cơ quan y tế.

Kinh phí cho việc ăn, mặc, ở và chữa bệnh của trại viên do ngân sách nhà nước cấp.

Điều 26. Trại viên được hoạt động thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ, được đọc sách báo, nghe đài, xem vô tuyến truyền hình theo quy định của Bộ Nội vụ.

Điều  Tin bài liên quan